Luật Nhà ở (sửa đổi) quy định Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cơ quan chủ quản dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân, người lao động thuê. Nguồn vốn thực hiện dự án là nguồn tài chính công đoàn, thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công.
Chỉ mở rộng một bước hợp lý các đối tượng được thuê nhà ở công vụ
Sáng 27/11, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Nhà ở (sửa đổi) với 423 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ 85,63%).
Trước khi biểu quyết, Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi).
Theo báo cáo này, có ý kiến đề nghị bổ sung vào điểm d khoản 1 Điều 45 đối tượng được thuê nhà ở công vụ là: người làm công tác cơ yếu, công chức, công nhân và viên chức quốc phòng được điều động, luân chuyển, biệt phái theo yêu cầu quốc phòng, an ninh, cơ yếu không phụ thuộc vào địa bàn công tác; người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu được điều động, luân chuyển, biệt phái đến công tác tại vùng sâu, vùng xa.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) giải trình cho biết, so với Luật Nhà ở hiện hành, dự thảo luật sửa đổi do Chính phủ trình tại kỳ họp thứ 5 đã bổ sung đối tượng “hạ sĩ quan thuộc lực lượng vũ trang nhân dân” được thuê nhà ở công vụ.
Tiếp thu ý kiến đại biểu và ý kiến của Chính phủ, dự thảo luật trình Quốc hội ngày 26/10/2023 đã mở rộng thêm với đối tượng này. Theo đó, người làm công tác cơ yếu và công tác khác trong tổ chức cơ yếu là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan thuộc quân đội nhân dân, công an nhân dân đã thuộc đối tượng được thuê nhà ở công vụ khi được điều động, luân chuyển, biệt phái theo yêu cầu quốc phòng, an ninh. Như vậy, nếu tiếp tục bổ sung, mở rộng thêm đối tượng như đề nghị nêu trên trong khi điều kiện nguồn lực nhà nước cho phát triển nhà ở công vụ còn khó khăn sẽ khó bảo đảm tính khả thi.
Bên cạnh đó, việc bổ sung đối tượng được thuê nhà ở công vụ theo đề nghị trên sẽ ảnh hưởng đến sự cân đối, đồng bộ về chính sách nhà ở công vụ đối với các nhóm đối tượng khác trong hệ thống chính trị.
Bởi theo quy định tại khoản 1 Điều 45 của dự thảo luật thì cán bộ, công chức phải giữ chức vụ nhất định, như ở trung ương phải là phó thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và tương đương trở lên, ở địa phương phải là phó chủ tịch UBND cấp huyện, phó giám đốc sở và tương đương trở lên mới thuộc đối tượng được thuê nhà ở công vụ. Đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội không giữ chức vụ, chỉ được thuê nhà ở công vụ khi được điều động, luân chuyển, biệt phái đến công tác tại xã vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, khu vực biên giới, hải đảo.
Vì các lý do nêu trên, UBTVQH đề nghị trong giai đoạn hiện nay chỉ mở rộng một bước hợp lý các đối tượng được thuê nhà ở công vụ phù hợp với khả năng đáp ứng của nguồn cung nhà ở công vụ, sau này, khi điều kiện cho phép sẽ xem xét, tiếp tục mở rộng thêm nữa.
Bổ sung quy định điều chỉnh với “chung cư mini”
Về nội dung phát triển nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân để bán, cho thuê mua, cho thuê, có ý kiến cho rằng quy định tại Điều 57 là quá chặt chẽ, khó khả thi. Đề nghị chỉnh lý theo hướng, Nhà nước tập trung quản lý, kiểm soát theo quy hoạch, quy chế quản lý kiến trúc đô thị, cấp phép xây dựng, bảo đảm vệ sinh môi trường, phòng cháy, chữa cháy hoặc luật chỉ quy định nguyên tắc và giao Chính phủ quy định chi tiết.
Trên cơ sở nghiên cứu, rà soát, tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH chỉnh lý Điều 57 theo hướng quy định phù hợp hơn một số yêu cầu như: không quy định yêu cầu riêng mà dẫn chiếu điều kiện quản lý loại hình nhà ở này đến các yêu cầu về xây dựng nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân do Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành, yêu cầu của pháp luật về phòng cháy, chữa cháy; phân cấp cho UBND cấp tỉnh quy định về đường giao thông để phương tiện chữa cháy thực hiện nhiệm vụ chữa cháy tại nơi có nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ của cá nhân; bổ sung quy định điều chỉnh đối với nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ có mục đích hỗn hợp cả bán, cho thuê mua, cho thuê để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đồng thời, luật giao Chính phủ quy định chi tiết điều này.
Một nội dung nữa cũng được nhiều đại biểu quan tâm là quy định Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cơ quan chủ quản dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội bằng nguồn tài chính công đoàn (khoản 4 Điều 80).
Nhiều ý kiến tán thành phương án quy định Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cơ quan chủ quản dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân, người lao động thuê bằng nguồn tài chính công đoàn. Có ý kiến cho rằng chỉ nên giao Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đầu tư dự án nhà ở xã hội mẫu, điển hình bằng nguồn tài chính công đoàn. Ý kiến khác cho rằng phương án nào cũng có ưu điểm, hạn chế, do đó đề nghị lấy phiếu đối với từng phương án.
Tiếp thu ý kiến đa số đại biểu, chỉnh lý dự thảo luật theo hướng quy định: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cơ quan chủ quản dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân, người lao động thuê bằng nguồn tài chính công đoàn để bổ sung nguồn lực đầu tư phát triển nhà ở xã hội. Phương án này đã có sự đồng thuận cao giữa UBTVQH, Chính phủ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và đa số ý kiến đại biểu Quốc hội.
Để có cơ sở triển khai đồng bộ quy định Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cơ quan chủ quản dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội cho công nhân, người lao động thuê bằng nguồn tài chính công đoàn, các điều có liên quan của dự thảo luật đã được tiếp thu, chỉnh lý như quy định nguồn vốn thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là nguồn tài chính công đoàn, việc xác định chủ đầu tư dự án được thực hiện theo quy định áp dụng với dự án đầu tư công theo quy định của pháp luật về đầu tư công. Theo đó, việc quản lý và triển khai thực hiện dự án đầu tư sẽ do đơn vị quản lý dự án trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công…
Theo Hoàng Yến